Hiểu được văn hoá đối tác, thể hiện bản sắc riêng của doanh nghiệp (DN), nhất là với đối tác nước ngoài là một trong những yếu tố tạo nên thành công trong quan hệ làm ăn.
TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cao cấp đã trao đổi với TGVT B về vấn đề này:
Văn hóa kinh doanh (VHKD) trong giao tiếp giữa các DN có thể hiểu là những quy tắc ứng xử bất thành văn, tuy là vô hình và không trở thành quy định luật pháp nhưng các bên tham gia ngầm hiểu và cùng chấp nhận. Trong quan hệ giữa các DN, VHKD có thể bao gồm: môi trường KD, những quy tắc ứng xử được các đối tác cùng chia sẻ, tính truyền thống hay thói quen đặc thù cho từng thị trường, từng nước hay từng nhóm đối tác. Những ứng xử VHKD đó rất quan trọng để tiến hành KD một cách thuận tiện và thành công.
TGVT B: Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cho rằng Việt Nam đã có tiến bộ về phát triển kinh doanh. Nhưng đa số DN lại chưa quan tâm đến xây dựng văn hóa cho DN, nên chưa tạo ra được những bản sắc riêng… Ý kiến của TS về vấn đề này?
TS Lê Đăng Doanh: Về năng lực cạnh tranh quốc tế, DN Việt Nam chưa xây dựng được nền tảng văn hóa DN. Nên sự hiểu biết, ứng xử của họ trong giao tiếp làm ăn với đối tác còn nhiều hạn chế. Khi tiếp xúc tìm kiếm cơ hội kinh doanh, không ít doanh nhân Việt Nam chưa chú trọng đến đặc điểm văn hóa ở các nước đối tác. Chẳng hạn, trong cuộc chiêu đãi, nhiều DN chưa coi trọng khẩu phần ăn, khẩu vị của thực khách, và đôi khi quá "nhiệt tình" chuốc bia rượu khiến đối tác phật lòng... DN chưa chịu khó tìm hiểu để có sự đón tiếp chu đáo. Điều này dẫn đến sự không hài lòng của đối tác, gây bất lợi cho việc hợp tác và chuyển giao công nghệ…
Có nhiều DN đầu tư cho các chuyến đi xúc tiến thương mại ở nước ngoài khá tốn kém nhưng lại không hiệu quả. Có doanh nhân mang áo dài Việt Nam sang tiếp thị ở Ai Cập nhưng quên không mang theo quần nên không bán được. Nhiều chuyến đi thiếu sự chuẩn bị, hiểu biết hạn chế về văn hóa các nước mà DN đến làm ăn... đã ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh.
TS có thể đưa ra những bài học điển hình về xây dựng VHKD để có cái nhìn thực tiễn cho DN trong nước?
Về cách làm ăn, người Nhật khá thành công trong kinh doanh xe máy tại thị trường Việt Nam. Họ đã nghiên cứu để thiết kế kiểu dáng của chiếc xe máy phù hợp với tập quán, sở thích của người Việt Nam. Hay một doanh nhân Nhật đã thành công trong kinh doanh khi đưa hương vị văn hóa Việt Nam (nhạc Trịnh, tranh thêu, tranh sơn mài) vào trong quán cà phê Trung Nguyên mở ở Tokyo.
“VHKD bao gồm: toàn bộ phương thức tiến hành KD, quản lý KD, đàm phán với các đối tác, giải quyết các nhiệm vụ xuất hiện trong quá trình KD như: tổ chức DN, hình thành quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động ... |
|
Có DN Việt Nam học được cách muối dưa chuột với ớt, gừng, tỏi để xuất khẩu sang Nhật theo đúng quy trình và khẩu vị của người Nhật. Những thành công này còn khá ít nên cần được nhân rộng hơn nữa.
Một ví dụ khác về bài học sai lầm của một công ty nước ngoài khi kinh doanh ẩm thực ở Paris. Họ không cho khách hàng uống bất kỳ loại rượu nào, kể cả rượu vang trong khi ăn. Kết quả KD rất kém, khách hàng người Pháp không hưởng ứng và công ty đã thất bại. Hành vi này chứng tỏ công ty này đã không nghiên cứu kỹ văn hóa ẩm thực Pháp. Uống một, hai ly rượu vang là thói quen bình thường của người tPháp. Sau đó, công ty buộc phải bỏ quy định này.
Theo TS, để tạo bản sắc riêng trong xây dựng văn hoá kinh doanh, DN cần chú ý đến những gì?
Các DN nên đặt ra tiêu chí trong xây dựng văn hoá ứng xử. Như doanh nhân Nhật, họ xem KD là trách nhiệm với dân tộc, tạo ra công ăn việc làm, thúc đẩy và tiếp thu kiến thức trong giao tiếp ứng xử...
Văn hoá DN là phải bao gồm sự tôn trọng luật pháp trong KD như: đăng ký thương hiệu, tôn trọng các quyền về tài sản trí tuệ, nộp thuế, bảo vệ môi trường, bảo hộ lao động… Trong quan hệ KD với đối tác, văn hoá KD phải bao gồm “chữ tín” đối với đối tác, khách hàng. Chẳng hạn, nợ ngân hàng đến hạn phải trả hay phải thông báo, thương lượng để gia hạn. Hay giao hàng đúng hạn trở thành một yêu cầu quan trọng của hợp đồng và năng lực cạnh tranh, uy tín của DN. DN quảng cáo phải đảm bảo trung thực, không thể nói quá sự thật, khoa trương những tính chất hoặc tác dụng không có thật để lừa bịp khách hàng…
“Để nâng cao vị thế, DN cần hệ thống hóa văn hóa DN, từ kiến thức, niềm tin, tín ngưỡng, đạo đức, pháp luật… Muốn có được văn hoá với bản sắc riêng thì DN phải tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi…” |
|
Trong quan hệ với người lao động, VHKD không chỉ thể hiện qua việc trả lương theo cống hiến hay năng suất, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, tạo điều kiện cho người lao động phát triển. Nó bao gồm cả việc xây dựng môi trường sản xuất KD dựa trên nguyên tắc nhân ái, bình đẳng. Một môi trường KD nhân ái là khuyến khích sáng tạo và cổ vũ cho sự tiến bộ, phát triển của người lao động. Bình đẳng là tạo cơ hội học tập và phát triển chứ không phải là chủ nghĩa bình quân, cào bằng giữa người giỏi và người kém hay sự buông thả về kỷ luật…
Để xây dựng được môi trường văn hoá của DN, rất cần có sự tham gia của các cơ quan Nhà nước nhằm hỗ trợ DN xây dựng văn hoá công sở, văn hoá trong ứng xử với công dân và DN, tôn trọng pháp luật.